Nội dung phim Thịnh Hạ Vãn Tình Thiên
Phim Thinh Ha Van Tinh Thien Đây là bài thơ của cụ Nguyễn Hàm Ninh: Ngã sinh chi sơ nhữ vị sinh, Nhữ sinh chi hậu ngã vi huynh. Bất tư cộng hưởng trân cam vị; Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình. Tạm dịch: Thuở tớ sinh ra, mày chửa sinh, Mày sinh sau tớ, tớ là anh. Ngọt bùi chẳng nghĩ cùng nhau hưởng, Xương thịt đành tâm nỡ dứt tình. Nhà vua khen hay, thưởng một chữ một nén vàng; nhưng vì cho bài có ý "móc", nên bắt phạt mỗi chữ đánh một roi. "Củi đậu đun hột đậu", "Nồi da xáo thịt", "Răng cắn lưỡi" thành ngữ điển tích này đều có một ý nghĩa như nhau.
Phim Thinh Ha Van Tinh Thien Nguyễn Tử Quang Điển hay tích lạ Bi ca tán Sở "Bi Ca Tán Sở" là một bài hát do Trương Lương đặt ra cho hòa theo tiếng tiêu thổi để làm tan rã quân đội Sở Bá Vương Hạng Võ. Trương Lương tự Tử Phòng, người nước Hán, đời Tần Hán (221 trước - 195 sau Dương lịch), phò Hán Bái Công Lưu Bang. Lúc bấy giờ, Hạng Võ bị tướng soái nhà Hán là Hàn Tín bao vây tại Cửu Lý San ở phía bắc thành Từ Châu.
Xem Phim Thinh Ha Van Tinh Thien Tuy lâm vào tình thế nguy ngập: thiếu lương, nhưng bên cạnh vua còn 8 ngàn tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Đông tu chỉnh binh mã để tiếp tục cuộc chiến đấu. Như vậy là một mối nguy cho Hán, dù có đại thắng bằng binh lực tất phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, Trương Lương hiến kế là tìm cách phân tán 8 ngàn tử đệ để cô lập Hạng Võ.
Có thế mới bắt Hạng Võ được. Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng, trời cuối thu lạnh lẽo, Trương đi qua lại từ Kê Minh san đến Cửu Lý san, vừa thổi tiêu vừa hát: "Tiết trời cuối thu chừ, bốn phía đầy sương. Trời cao nước cạn chừ, tiếng nhạn bi thương Cực người biên thú chừ, ngày đêm bàng hoàng, Thoát gươm mắc tên chừ, sa mạc phơi xương. Mười năm xa quê chừ, cha mẹ đau buồn. Vợ con mong nhớ chừ, gối chiếc chăn đơn. Đồng ruộng bỏ hoang chừ, ai người trông nom. Xóm có rượu ngon chừ, cùng ai thưởng thức, Tóc bạc mong con chừ, tựa cửa sớm hôm, Trẻ khóc gọi cha chừ, nước mắt trào tuôn.
Gió bấc kia thổi chừ, ngựa Hồ nhớ chuồng. Người xa quê hương chừ, nỡ quên xóm làng, Một sớm giao phong chừ, thân bỏ sa tràng, Xương thịt như bùn chừ, trên bãi trong mương. Hồn phách bơ vơ chừ, không nơi tựa nương, Tráng khí lừng danh chừ, phó trả hoang đường. Đêm trường canh vắng chừ, tự hỏi thiên lương, Mau bỏ Sở tan chừ, tránh chết tha phương, Ta vâng ý trời chừ, soạn ca thành chương, Ai biết mạng trời chừ, xin đừng mờ màng, Hán Vương nhân đức chừ, không giết quân hàng. Ai muốn về quê chừ, tha cho lên đường, Chớ giữ trại không chừ, Sở đã tuyệt lương Khi Võ bị bắt chừ, ngọc đá khôn lường.